Có thể đòi lại phần vốn góp khi công ty thông báo làm ăn thua lỗ?
Hỏi: Em gái tôi và chồng (A) có kế hoạch mở công ty, nên em tôi đã thuyết phục tôi góp vốn thành lập công ty chung với vợ chồng họ, sẵn có nguồn vốn do vừa bán miếng đất của cha, mẹ cho. Sau khi bàn bạc và thỏa thuận thì tôi đồng ý góp số tiền 1 tỷ đồng, còn vợ chồng em tôi sẽ góp vốn với số tiền 2 tỷ đồng và lợi nhuận chia theo % vốn góp. Tôi có cung cấp giấy CMND và mọi thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần đầu này (kể cả ký tên) do em rễ thực hiện. Ngày 18/03/2016 Công ty TNHH X thành lập với hai thành viên góp vốn vợ chồng em tôi và em rể làm Giám đốc - người đại diện theo pháp luật. Sau đó, vợ chồng em tôi có cung cấp giấy chứng nhận Đăng ký doanh nghiệp cho tôi, các bên làm giấy cam kết góp vốn.
Kể từ tháng 04/2016 đến tháng 08/2016 tôi chuyển vào tài khoản công ty đủ 1 tỷ đồng theo cam kết, sau đó vợ chồng em tôi đã làm thủ tục cập nhật tên tôi là thành viên góp vốn. Ngày 12/03/2020 vợ chồng em gái đã ly hôn và thỏa thuận phân chia cả tài sản của công ty, cùng tháng 03/2020 ông A đã tự thực hiện thủ tục chuyển nhượng vốn của tôi và em gái tôi qua tên ông, việc này tôi hoàn toàn không được biết đến.
Đến nay, khi biết được vụ việc trên thì tôi nhiều lần yêu cầu vợ chồng em tôi trả lại lại số vốn góp nhưng vợ chồng họ đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, và còn cho tôi hay thông tin rằng công ty làm ăn lỗ vốn không còn tiền để trả lại cho tôi, hơn nữa họ đã ly hôn chia tài sản xong rồi tôi không thể lấy lại được số tiền đã góp. Với sự việc như trên, tôi có thể đòi lại số tiền đã góp vốn hay không? xin tư vấn cho tôi cách giải quyết
Đáp: Chào anh/chị, cảm ơn anh/chị đã gửi câu hỏi pháp lý đến Công ty Luật TNHH HT LEGAL VN.
Với trường hợp này chúng tôi được giải đáp như sau:
Thứ nhất, xét về thời hiệu khởi kiện thì đây là hợp đồng góp vốn nên về thời hiệu khởi kiện là 03 năm kể từ ngày ông biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại theo quy định tại Điều 429 Bộ Luật dân sự năm 2015 và Điều 185 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Ngoài ra, để có cơ sở được giải quyết thì ông phải sao kê tài khoản ngân hàng để có chứng cứ chứng minh vào thời điểm góp vốn, ông đã góp vốn vào Công ty X với số tiền 1 tỷ đồng.
Thứ hai, xét tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng vốn từ ông sang em rể do em rể ông tự xác lập thực hiện: Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp từ ông sang A được xác lập khoảng tháng 03/2020 căn cứ Khoản 1 Điều 117, Khoản 1 Điều 407 Bộ Luật dân sự năm 2015, thì trường hợp này đã vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự về mục đích và nội dung của hợp đồng. Đây là Hợp đồng vô hiệu.
Thứ ba, căn cứ Điều 47, 50 Luật Doanh nghiệp 2014 thì việc ly hôn và chia tài sản của hai vợ chồng em ông là một quan hệ khác với quan hệ góp vốn trong công ty TNHH X có tư cách pháp nhân riêng, trong mối quan hệ giữa ba bên trong Công ty X mỗi người đều là thành viên của Công ty X có quyền và nghĩa vụ dựa trên tỷ lệ phần góp vốn của mình được điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan, thành viên công ty không được quyền rút vốn mà chỉ được chỉ được quyền chuyển nhượng theo quy định tại Điều 52, 53, 54 và 68 của Luật Doanh nghiệp 2014.
Thứ tư, về việc kinh doanh lỗ vốn không còn tiền để chi trả thì việc kinh doanh thua lỗ này vợ chồng em ông phải cung cấp báo cáo tài chính để chứng minh việc kinh doanh bị thua lỗ, đồng thời xem xét các hợp đồng giao dịch do ông A làm người đại diện theo pháp luật ký kết có đúng quy định tại các Điều 64, 67 Luật Doanh nghiệp 2014 hay không?
Mặt khác, nguồn gốc của việc mất phần vốn góp trong Công ty X của ông là từ Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp do ông A xác lập mà không có sự đồng ý của ông chứ không phải từ việc thâu tóm thông qua hình thức huy động vốn.
Phương án giải quyết:
- Căn cứ Khoản 4, Điều 17, Khoản 1 Điều 211 Luật doanh nghiệp năm 2014, ông được quyền trình báo vụ việc đến Sở Kế hoạch và Đầu tư nơi Công ty X có trụ sở để yêu cầu thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của lần thay đổi nội dung đăng ký loại bỏ tên ông khỏi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Căn cứ Khoản 19 Điều 1, Điều 20 Nghị định 108/2018/NĐ-CP quy định về xác định nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo ông có quyền Yêu cầu khôi phục lại tư cách thành viên cho ông tại công ty X.
- Trường hợp không giải quyết được bằng con đường khiếu nại thì ông có thể khởi kiện tranh chấp ra Tòa án có thẩm quyền.
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi, căn cứ vào những thông tin quý khách hàng cung cấp.
Công ty Luật TNHH HT Legal VN - Hotline: 09 6161 4040 – 09 4517 4040